Thông Tin Chi Tiết Về Đá Peridot – Đá quý màu xanh lá cây

Bài viết này LNJ tổng hợp tất cả các thông tin cần biết về loại đá Peridot. Trong suốt nhiều thập kỷ, loại đá quý này  luôn được coi là biểu tượng của sự bảo vệ – canh giữ trước những điều xui xẻo

1.Lịch sử và sự hình thành đá Peridot

Đá Peridot

I.Lịch Sử Về Đá Peridot

Peridot là một trong những loại đá có lịch sử rất lâu đời. Trong các cuộn giấy cói cổ khai quật ghi lại rằng con người đã biết khai thác và sử dụng Peridot từ hơn 1500 năm TCN
Về nguồn gốc tên gọi của Peridot có nhiều bí ẩn gây tranh cãi. Thật ra, người Hy Lạp ban đầu gọi Peridot là Topazion hay Topazius (tên này sau đó được đặt cho topaz), về sau mới đổi thành Chrysolite nghĩa “viên đá màu vàng”. Để lý giải cho điều này, có thể người Ai Cập lúc ấy cống nạp đến Hy Lạp những viên Peridot đầu tiên có màu ám vàng hoặc thị hiếu thời bấy giờ đá có màu ánh vàng mới được ưa chuộng…
Có lẽ vì thế, tên Peridot” không phải bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, mà chính là phiên âm theo cách đọc của từ “faridat” trong tiếng Arab (ngôn ngữ chính của Ai Cập) mang ý nghĩa là “đá quý”.
Nơi phát nguồn đầu tiên của Peridot là đảo Zabargad, nằm trên Biển Đỏ thuộc Ai Cập (được gọi là đảo Topazo thời Hy Lạp – La Mã). Theo tương truyền hòn đảo thường bị che khuất trong sương mù dường như biến mất trong ảo ảnh, khiến các nhà hàng hải cổ đại khó tìm thấy. Người Ai Cập cổ đại xem Peridot là loại đá cao quý nên chỉ được sử dụng cho việc chạm khắc thành những tấm bùa chú và đính trên trang sức của hoàng gia.

II.Sự Hình Thành của peridot

Khi nhắc đến Ai Cập, ai cũng ngưỡng mộ bởi những kim tử tháp hùng vĩ hay những Pharaon với nhiều truyền thuyết thần kì. Nhưng sự thật là từ TCN, Ai Cập luôn bị xâm lượt và phải nằm trong tay những đế chế hùng mạnh như Hy Lạp, La Mã, Arab đến cuối cùng là Ottoman… Cho dù là thuộc địa của đế chế nào thì trong hàng ngàn năm ấy, hòn đảo Zabargad vẫn được các vương triều phong kiến bảo vệ cực kỳ nghiêm ngặt như 1 thánh địa. Việc khai thác đá Peridot diễn ra rất chừng mực, chủ yếu nộp vào quốc khố của triều đình.
Tuy nhiên khi đế quốc tư bản Anh xâm lượt thì mọi chuyện đã khác, họ bắt đầu hoạt động khai thác ồ ạt loại đá quý giá này thu về hàng triệu đô la. Đến năm 1905, việc khai thác mỏ Peridot đã đạt đến đỉnh điểm và sản lượng giảm đáng kể, đến năm 1930 thì gần như cạn kiệt nên dừng hẳn sau đó.
2.Đặc Tính Peridot

I.Thành Phần Hóa Học của peridot

Peridot là loại đá quý của thuộc nhóm đá olivine. Phần lớn đá olivine hình thành sâu bên trong trái đất và được các núi lửa chuyển lên bề mặt, gồm 2 loại: olivine maggie tên là Forsterite (Mg2SiO4) và olivine sắt tên là Fayalite (Fe2SiO4).
Peridot chính là trung gian, là hỗn hợp của 2 loại trên nhưng có xu hướng chứa nhiều Forsterite hơn, mặc dù màu sắc đặc trưng được tạo ra bởi sắt (Fe2+), một yếu tố không thể thiếu được.

II.Màu sắc

Đá Peridot Mài Giác
Khác với nhiều loại đá khác thường có tác nhân tạo màu là tạp chất, ở đá Peridot có yếu tố gây màu là thành phần chính trong cấu tạo hoá học.
Thế nên Peridot chỉ có 1 một màu chủ đạo, thường có màu từ vàng lục đến xanh lục là do tỉ lệ thành phần Forsterite-Fayalite thay đổi. Nếu chứa nhiều Fayalite thì Peridot có màu nghiêng về vàng lục, ngược lại nếu chứa nhiều Forsterite thì Peridot sẽ có màu xanh lục vô cùng hấp dẫn.
Trong thực tế, Peridot khi được khai thác trong tự nhiên vẫn thường có ít sắc nâu làm giảm giá trị và chất lượng của viên đá. Là do trong tự nhiên Fe2+ bị oxy hoá thành Fe3+, tác nhân gây màu nâu không mong muốn.

III.Nghiên cứu về đá peridot

Các nhà khoa học đã nghiên cứu thấy rằng, khi nung Peridot có sắc nâu trong môi trường ô-xy hóa, sắc nâu sẽ tăng lên (do Fe2+ chuyển thành Fe3+), còn nếu nung trong môi trường khử thì sắc nâu sẽ giảm xuống (do Fe3+ chuyển lại thành Fe2+). Đây cũng là nguyên lý để người ta xử lý nhiệt diễn ra rất phổ biến trên đá Peridot, không hiểu sao giới kiểm định thường không xác định việc này…
Một viên Peridot được xem là đẹp nhất và có giá trị nhất phải có màu xanh lục đậm rất ít sắc vàng và không có sắc nâu được ví như màu xanh mơn mỡn của cây cỏ mùa xuân, chỉ nên chứa 10-15% thành phần Fayalite và có hiện diện của Chrome giúp màu xanh mãnh liệt hơn. Peridot có màu xanh huyền thoại này rất hiếm gặp, chỉ có thể tìm thấy ở Ai Cập, Burma nhưng gần như đã cạn kiệt, gần đây thế giới phát hiện ra loại Peridot ở Pakistan cũng có màu xanh lục khá đẹp.
Peridots xanh lục hơn 3 Cts đã khá đắt tiền và nếu một viên đá trên 8 cts là cực kỳ hiếm, đều là mong muốn của các nhà sưu tập hoặc bảo tàng.

3.So Sánh Đá Peridot và Emerald đâu là ngọc lục bảo thật sự

Peridot và Emerald

Khi nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài nước, Mình thấy khá nhiều thông tin nói về việc nhầm lẫn giữa Emerald và Peridot trong quá khứ. Đại loại như: Hầu hết các món trang sức nổi tiếng của nữ hoàng Cleopatra chính là đá Peridot chứ không phải Emerald như mọi người từng nghĩ suốt 1 thời gian dài. Hay chiếc hộp đựng hài cốt của 3 vị thánh trong nhà thờ Cologne Cathedral (K’lon, Đức), nhà thờ cao thứ 3 thế giới có từ thời La Mã được cho là đính Emerald nhưng thật ra là đá Peridot…

1.Dưới góc độ khoa học

Nhìn dưới góc độ khoa học hiện đại, Emerald và Peridot là 2 loại đá hoàn toàn rất khác nhau, trong khi Peridot có màu xanh lục phớt vàng vô cùng đặc trưng thì đá Emerald lại có màu xanh phớt lam rất đặc biệt và thành phần, đặc tính không giống nhau. Có thể nói rằng: cơ hội nhầm lẫn giữa 2 loại đá này với nhau gần như bằng “0”.

2.Lịch sử tên gọi đá Peridot

I.Giả Thuyết

Nhiều giả thuyết cho rằng người La Mã và Hy Lạp cổ đại đã biết phân biệt các loại đá quý. Nhưng điều này hoàn toàn không đúng. Lịch sử đá quý chỉ thật sự bắt đầu vào giữa thế kỷ 19 khi khái niệm “đá bán quý” xuất hiện và việc xác định tên và phân loại đá diễn ra.
Chúng ta nên nhớ rằng, mãi tới giữa thế kỹ 16 thì ngành khoáng vật học mới bắt đầu hình thành, ông Georgius Agricola tác giả cuốn sách cổ “De re metallica” được xem là cha đẻ của ngành khoáng vật học. Suốt thời gian dài trước đó, người ta vẫn tin vào học thuyết của Aristotle (thầy của Alexander Đại đế) có từ TCN cho rằng vạn vật hình thành từ 4 nguyên tố đất, nước, lửa, khí. Lý thuyết được vận dụng bởi các nhà giả kim mang đậm tính huyền bí, huyễn hoặc…

II. Sự mơ hồ trong việc phân loại đá quý trước thế kỷ 19:

Tại sao cùng là viên đá màu xanh, nhưng lại có hai cái tên khác nhau là Emerald và Peridot? Câu trả lời nằm ở lịch sử phân loại đá quý. Trước thế kỷ 19, khi kiến thức về khoa học vật liệu còn hạn chế, con người chủ yếu phân biệt các loại đá quý dựa trên màu sắc và độ cứng. Các viên đá quý được xem như những món đồ trang sức quý giá và mang ý nghĩa tâm linh. Việc đặt tên cho chúng thường mang tính chất chủ quan và tùy thuộc vào từng nền văn hóa.

Trong thời kỳ cổ đại, người ta thường gọi các viên đá màu xanh là “Smaragdus”, tiền thân của từ “Emerald” ngày nay. Tuy nhiên, khái niệm “Smaragdus” lúc bấy giờ khá mơ hồ và bao gồm cả những viên Peridot có màu xanh lá cây. Tương tự, đá Peridot cũng thường bị nhầm lẫn với Topaz do sự tương đồng về màu sắc.

III. Sự thay đổi trong việc phân loại đá quý sau thế kỷ 19

Mãi đến khi bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học ra đời và các phương pháp phân tích khoa học được phát triển, việc phân loại đá quý mới trở nên chính xác hơn. Các nhà khoa học đã xác định được thành phần hóa học và cấu trúc tinh thể của từng loại đá, từ đó đưa ra những định nghĩa rõ ràng và phân biệt chúng một cách khoa học.

Ngày nay, Emerald được định nghĩa là loại đá quý có thành phần chính là Beryl và có màu xanh lục tươi sáng, trong khi Peridot là loại đá quý có thành phần chính là Olivin và có màu xanh lục ô liu. Mặc dù cả hai loại đá đều có màu xanh, nhưng chúng có những đặc điểm vật lý và quang học khác nhau.

Việc hiểu rõ lịch sử phân loại đá quý giúp chúng ta khám phá thêm về sự đa dạng và vẻ đẹp của tự nhiên, đồng thời trân trọng hơn những viên đá quý mà chúng ta sở hữu. Giống như việc chúng ta phân loại các loài hoa dựa trên giống loài và đặc điểm hình thái, việc phân loại đá quý cũng là một quá trình khám phá và tìm hiểu không ngừng.

Peridot được xem là trang sức hoàng gia Ai Cập ( Nữ Hoàng Cleopatra)

4.Đá Peridot Tại Việt Nam

Núi Hàm Rồng là miệng núi lửa nổi tiếng nhất Tây nguyên nơi có nhiều tinh thể Peridot

 

I.Peridot phát hiện tại Việt Nam như thế nào

Đá Peridot Việt Nam được phát hiện vào những năm 1990 tại vùng Tây Nguyên gồm ba tỉnh: Gia Lai, Đăk Nông và Lâm Đồng. Gia Lai là nơi có hoạt động khai thác mạnh nhất với mỏ Hàm Rồng sản lượng hơn 100kgs/tháng (có 15-20% đạt chất lượng chế tác đá quý).

Việc khai thác chủ yếu ở quy mô lẽ bởi các thợ mỏ địa phương bằng các thiết bị thô sơ. Ở một vài điểm khai thác, các thợ mỏ phải đào hố sâu 3-5m để đến các lớp trầm tích có đá peridot.
Tại Tây Nguyên Núi Hàm Rồng , đây là miệng núi lửa có hình móng ngựa, cao 1,028m, được hình thành trong giai đoạn phun trào gần 4 triệu năm trước. Từ miệng núi có một rãnh sâu lớn hình phễu chạy về hướng về nam. Đây là vết tích đường đi của dòng chảy dung nham cũ, dọc rãnh này dễ dàng bắt gặp nhiều tinh thể Peridot và Obsidian…

II.Chất Lượng Peridot Việt Nam Và thế giới

Năm 2012, hai nhà khoa học nước ngoài là Dr. Hauzenberger (đến từ Áo) và Dr. Häger (đến từ Đức) đã kết hợp với một số nhà địa chất & ngọc học Việt Nam để nghiên cứu về Peridot vùng Tây Nguyên (Việt Nam). Kết quả nghiên cứu này rất quan trọng để so sánh chất lượng Peridot của Việt Nam với Peridot các nước khác:

Kích thướt và phân bố:

Hầu hết Đá Peridot Việt Nam có đường kính dưới 1,5cm, thĩnh thoảng có những mảnh lớn tới 6cm. Peridot được tìm thấy trong phù sa sỏi và các nốt sần Peridot, hiếm khi có tinh thể hình thành đơn lẻ.

Màu sắc:

Peridot của Việt Nam có màu sắc khá đa dạng từ xanh lục phớt vàng đậm và nhạt, xanh vàng, xanh oliu đến xanh phớt nâu (light yellowish green to a darker, richer yellow green, olive green, and brownish green), phần nhiều vẫn là xanh phớt vàng (yellowish green). Nhìn chung màu sắc của Peridot Việt Nam khá tương đồng màu Peridot khai thác ở Tanzania và Sardinia (Ý).

Đặc điểm ngọc học cơ bản:

RI: 1.650 – 1.703
Birefringence: 0.036
SG: 3.28 – 3.49
Trơ với đèn UV sóng ngắn lẫn sóng dài.
Chưa phát hiện Peridot có hiệu ứng Cat’s Eye hay Star ở Việt Nam.

Đặc điểm bên trong:

Peridot Việt Nam thường chứa bao thể dạng đĩa (đây là bao thể lỏng bị kéo căng) và tinh thể Chromite hoặc bao thể Hercynite với vàng hào quang nứt gãy bao quanh.

Thành phần hoá học:

Đá Peridot Việt Nam thường có thành phần Fayalite dao động từ 8,24 – 9,90%. Hàm lượng này tương tự như Peridot Myanmar, Sardinian (Ý) và Arizona (Mỹ), nhưng cao hơn Peridot từ Tanzania và Zabargad và Kohistan (Pakistan).
Về các nguyên tố vi lượng, Peridot Việt Nam có hàm lượng Niken đặc biệt cao, tương tự như Peridot Sardinian (Ý) và Kohistan (Pakistan). Niken cũng góp phần làm cho màu xanh mãnh liệt hơn.
Công bằng mà nhận xét, Peridot Việt Nam có chất lượng không thua kém gì Peridot của nước ngoài , thậm chí còn đẹp hơn. Có chăng là chúng ta thiếu việc đầu tư khai thác chuyên nghiệp, cũng như có công nghệ xử lý trước chế tác (xử lý nhiệt nhẹ để làm các viên đá sáng màu hơn). Nhìn chung, Peridot cũng là một loại đá đáng tự hào của người dân Việt Nam.

5. Video Về Peridot

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *